Rung nhĩ (tim đ.ập loạn nhịp) là một bệnh lý tim mạch có khả năng làm tăng nguy cơ đột quỵ lên gấp 5 lần so với người bình thường và có khoảng 20% các trường hợp đột quỵ là do rung nhĩ gây ra.
Đối với những người bệnh đã phát hiện rung nhĩ, nên đến khám chuyên khoa tim mạch để đ.ánh giá nguy cơ có thể gây đột quỵ, từ đó được chỉ định những phương pháp điều trị và dự phòng đột quỵ phù hợp.
Đột quỵ do rung nhĩ chiếm tỷ lệ cao
Đột quỵ là một trong những nguyên nhân gây t.ử v.ong hàng đầu trên thế giới. Đây là bệnh lý cấp tính nguy hiểm, thường xảy ra đột ngột, có tỷ lệ t.ử v.ong cao nếu không phát hiện sớm và cấp cứu kịp thời. Tại Việt Nam, mỗi năm có hơn 200.000 người bị đột quỵ, trong đó có từ 10 – 20% trường hợp t.ử v.ong và chỉ có khoảng 30% người bệnh sống sót có khả năng bình phục hoàn toàn. Có khoảng 20% các trường hợp đột quỵ là do rung nhĩ gây ra.Theo GS. TS. BS Trương Quang Bình – Phó Giám đốc Bệnh viện, Giám đốc Trung tâm Tim mạch Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, rung nhĩ gây ứ trệ m.áu trong buồng tim làm hình thành những cục huyết khối trong tâm nhĩ. Các cục m.áu đông này có thể trôi theo dòng màu và gây tắc mạch, trường hợp tắc mạch m.áu não sẽ dẫn đến đột quỵ. Đột quỵ do rung nhĩ thường nặng nề hơn và có tiên lượng xấu hơn đột quỵ do nguyên nhân khác. Tỷ lệ mắc rung nhĩ tăng rõ theo t.uổi: dưới 60 t.uổi thì cứ 25 người thì mới có 1 người bị rung nhĩ, nhưng trên 80 t.uổi thì cứ 10 người đã có 1 người bị rung nhĩ.
Bài Viết Liên Quan
- Uống rượu hơn 1 tuần liền, người đàn ông Hà Nội nguy kịch, phải thở máy
- Đậu phụ tốt cho sức khỏe nhưng ai không nên ăn để tránh rủi ro?
- Phát hiện viên giảm cân chứa chất cấm
Bác sĩ điều trị cho bệnh nhân tại Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn. Ảnh: Phạm Hùng
Vì chủ quan hoặc chưa hiểu biết, không ít người bệnh rung nhĩ không tuân thủ việc sử dụng thuốc và các biện pháp dự phòng đột quỵ. Đã có trường hợp người bệnh phải nhập viện cấp cứu do đột quỵ trong tình trạng rất nguy hiểm.
Bà N.T.M. (52 t.uổi, ngụ tại Long An) được phát hiện rung nhĩ cách đây 10 năm trong một lần khám sức khỏe định kỳ, được chỉ định dùng thuốc kháng đông để dự phòng đột quỵ. Cách đây một tuần, bà M. ngưng thuốc kháng đông để đi nhổ răng. Mặc dù sáng đó bà M. đã bắt đầu uống thuốc lại, nhưng gần trưa thì bất ngờ đột ngột liệt nửa người trái, méo miệng, nói đớ, được đưa đến BV cấp cứu.
Bà M. được nhanh chóng chụp cắt lớp sọ não và mạch m.áu não, xác định tắc động mạch não giữa bên phải, được chuyển lên can thiệp nội mạch cấp cứu, lấy được cục m.áu đông, thông lại mạch m.áu. Sau can thiệp, người bệnh hồi phục tốt, chỉ còn yếu nhẹ tay trái.
Các bác sĩ đ.ánh giá, nếu không cấp cứu kịp thời, người bệnh sẽ bị nhồi m.áu não diện rộng, hư hại gần một nửa não bộ, có thể phù não nặng nguy hiểm tính mạng, nếu sống sót cũng sẽ liệt nửa người và rối loạn lời nói. Sau khi tình trạng bệnh ổn định, người bệnh được chỉnh liều kháng đông cho phù hợp để tiếp tục dùng thuốc lâu dài.
Những khuyến cáo GS.TS. BS Trương Quang Bình cho biết, những đối tượng đã có sẵn bệnh lý về tim như nhồi m.áu cơ tim, thiếu m.áu cơ tim cục bộ lâu ngày, suy tim, cơ tim hoặc viêm màng ngoài tim đều có thể dẫn đến tình trạng rung nhĩ. Bên cạnh đó, các bệnh lý ngoài tim như tăng huyết áp, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và bệnh lý về tuyến giáp (đặc biệt là cường giáp) cũng là nguyên nhân gây rung nhĩ. Ngoài ra, rung nhĩ còn có thể xảy ra ở những người sử dụng nhiều rượu bia, béo phì, bị n.hiễm t.rùng nặng… Dấu hiệu thường gặp của rung nhĩ là nhịp tim không bình thường, gây hồi hộp, đ.ánh trống ngực, đau tức ngực… Cũng có những trường hợp người bệnh không biểu hiện triệu chứng. Vì vậy, việc khám sức khỏe định kỳ rất quan trọng, giúp phát hiện và điều trị bệnh sớm, tránh các biến chứng nguy hiểm.Một số trường hợp rung nhĩ có thể được chữa trị dứt điểm, người bệnh sẽ được sử dụng phương pháp sốc điện chuyển nhịp hoặc sử dụng can thiệp đốt điện trong buồng tim tiêu hủy ổ rung nhĩ, đưa nhịp tim trở lại bình thường.
Tuy nhiên, đa số người bệnh vẫn sẽ phải sử dụng thuốc kháng đông, nhằm tránh tình trạng hình thành m.áu đông gây tắc nghẽn mạch m.áu. Thuốc kháng đông mang lại hiệu quả rất cao khi có thể giảm được đến 80% nguy cơ đột quỵ. Tuy nhiên, người bệnh cần sử dụng thuốc đúng liều lượng theo chỉ dẫn của bác sĩ. Đối với những trường hợp không thể sử dụng thuốc do có bệnh lý như loãng m.áu, dễ c.hảy m.áu, có thể sử dụng một phương pháp tiên tiến là bít một phần tiểu nhĩ để tránh hình thành m.áu đông.Các bác sĩ khuyến cáo, đột quỵ không có dấu hiệu nhận biết trước nên người bệnh không nên chủ quan mà phải tự chủ động trang bị kiến thức để tự bảo vệ bản thân, giảm thiểu tối đa các nguy cơ có thể dẫn đến đột quỵ. Đối với những người bệnh đã từng bị đột quỵ, tỷ lệ xảy ra đột quỵ tái phát rất cao, do đó người bệnh cần nâng cao ý thức dự phòng về sau. Nên có kế hoạch ăn uống, luyện tập để duy trì lối sống lành mạnh, tuân thủ điều trị của bác sĩ.
Cục m.áu đông nguy hiểm cỡ nào mà dễ gây đột quỵ c.hết người đến vậy?
Việc đông m.áu là quan trọng để ngăn ngừa ra m.áu quá nhiều nếu bị thương hoặc đứt.
Cục m.áu đông chặn dòng m.áu đến các vùng quan trọng của cơ thể, nó có thể gây hại, thậm chí gây t.ử v.ong – ẢNH MINH HỌA: SHUTTERSTOCK
Tuy nhiên, khi cục m.áu đông chặn dòng m.áu đến các vùng quan trọng của cơ thể, nó có thể gây hại, thậm chí gây t.ử v.ong, theo Cleveland Clinic.
Cục m.áu đông có thể xảy ra ở tay và chân, bụng (dạ dày), tim, phổi, não và thận.
Cục m.áu đông có thể nằm ở một chỗ hoặc di chuyển khắp cơ thể. Các cục m.áu đông di chuyển đặc biệt nguy hiểm. Cục m.áu đông có thể hình thành trong động mạch hoặc tĩnh mạch.
Những người có lượng sắt trong m.áu thấp có nguy cơ cao mắc các cục m.áu đông nguy hiểm, như trường hợp của Maradona – ẢNH: SHUTTERSTOCK
Cục m.áu đông nào nguy hiểm nhất?
Bất kỳ cục m.áu đông nào hình thành trong động mạch hoặc tĩnh mạch đều nguy hiểm.
Nên gọi cấp cứu ngay lập tức nếu nghi ngờ có cục m.áu đông.
1. Huyết khối tĩnh mạch sâu
Cục m.áu đông hình thành ở một trong những tĩnh mạch lớn hơn của cơ thể được gọi là huyết khối tĩnh mạch sâu.
Khi cục m.áu đông vỡ ra và bắt đầu di chuyển trong dòng m.áu có thể gây hại.
Một trong những mối quan tâm cấp bách nhất về cục m.áu đông là khi huyết khối tĩnh mạch sâu di chuyển đến phổi và bị mắc kẹt. Tình trạng này, gọi là thuyên tắc tĩnh mạch phổi, có thể làm m.áu ngừng chảy và hậu quả có thể rất nghiêm trọng, thậm chí gây t.ử v.ong, theo Cleveland Clinic.
2. Cục m.áu đông ở động mạch não
Các cục m.áu đông trong động mạch não gây ra đột quỵ.
3. Cục m.áu đông ở động mạch tim
Các cục m.áu đông hình thành trong các động mạch tim, gây ra các cơn đau tim.
Các cục m.áu đông cũng có thể hình thành trong các mạch m.áu ở bụng, gây đau bụng hoặc buồn nôn và nôn.
Ai có nguy cơ bị cục m.áu đông cao nhất?
Một số yếu tố nguy cơ khiến một số người có nguy cơ hình thành cục m.áu đông cao hơn.
Trên 65 t.uổi : Càng lớn t.uổi càng dễ bị cục m.áu đông, đặc biệt trên 65 t.uổi.
Thời gian nằm viện lâu , phẫu thuật và chấn thương có thể làm tăng đáng kể nguy cơ đông m.áu.
Thiếu m.áu do thiếu sắt
Nghiên cứu mới cho thấy nồng độ sắt trong m.áu thấp làm tăng nguy cơ đông m.áu.
Những người có lượng sắt trong m.áu thấp có nguy cơ cao mắc các cục m.áu đông nguy hiểm, như trường hợp của Maradona, theo Express .
Các yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ ở mức độ thấp hơn, bao gồm:
Uống thuốc tránh thai hoặc bổ sung nội tiết tố.
Mang thai.
Bị ung thư, hoặc đã được điều trị ung thư.
Có t.iền sử gia đình về cục m.áu đông hoặc dễ bị đông m.áu.
Bị mắc virus Corona.
Thừa cân hoặc béo phì.
Lối sống ít vận động.
Hút t.huốc l.á.
Các triệu chứng phổ biến nhất của cục m.áu đông là gì?
Một số người có thể không gặp triệu chứng nào.
Nhưng đa số đều có triệu chứng, tùy vào vị trí hình thành cục m.áu đông mà các triệu chứng có thể khác nhau, theo Cleveland Clinic.
Ở bụng
Các cục m.áu đông ở vùng bụng có thể gây đau hoặc buồn nôn và nôn.
Ở cánh tay hoặc chân
Cục m.áu đông ở chân hoặc cánh tay có thể gây đau hoặc mềm khi chạm vào. Sưng, tấy đỏ là những dấu hiệu phổ biến khác của cục m.áu đông.
Ở não
Cục m.áu đông trong não gây ra đột quỵ, có thể gây ra nhiều triệu chứng, tùy thuộc vào phần nào của não bị ảnh hưởng.
Những cục m.áu đông này có thể gây ra các vấn đề về nói hoặc nhìn, không thể cử động hoặc mất cảm giác ở một bên cơ thể và đôi khi co giật.
Ở tim hoặc phổi
Cục m.áu đông trong tim sẽ gây ra các triệu chứng của cơn đau tim như đau tức ngực, đổ mồ hôi, đau lan xuống cánh tay trái hoặc khó thở.
Cục m.áu đông trong phổi có thể gây đau ngực, khó thở và đôi khi có thể dẫn đến ho ra m.áu, theo Cleveland Clinic .